Page Redirection If you are not redirected automatically, follow the link to our homepage.

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

Lễ hội Lồng tồng ( Lễ hội xuống đồng )

Hằng năm, cứ vào dịp sau tết Nguyên Đán là ở khắp các bản làng của người Tày, người Nùng lại nô nức chờ đón những ngày hội rộn ràng của lệ hội "Lồng Tồng".

Lồng Tồng còn có nghĩa là lễ xuống đồng, là một phong tục cổ xưa của một số đồng bảo dân tộc thiểu số. Nó được tổ chức với ý nghĩa lớn lao và cầu mưa thuận gió hòa, cầu cho một vụ mùa bội thu sẽ đến với người nông dân miền núi. Tín ngưỡng dân gian này là một nét đẹp văn hóa, lưa giữ những giá trị truyền thống tốt đẹo của các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta. Lễ hội Lồng Tồng thường được tổ chức vào khoảng từ ngày mồng 4 tới mồng 10, sau dịp Tết. Tùy theo phong tục của từng dân tộc mà nó được tổ chức vào những ngày khác nhau, nhưng thời gian chủ yếu cùng được kéo dài trong 3 ngày.
Hầu hết các hội Lồng tồng lớn nhất đều được tổ chức vào ngày 4 - 10 tháng giêng, như Lồng tồng huyện Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên), huyện Yên Sơn, Chiêm Hóa, Nà Hang (tỉnh Tuyên Quang), huyện Ba Bể (Bác Kạn)
Không gian tổ chức Lễ hội Lồng tồng thường được diễn ra ở sân đình hoặc tại khu đất ruộng bằng phẳng giữa cánh đồng hay gò đất nơi thuận tiện cho hành lễ và vui hội. Địa phương nào không có đình thì chọn khu đất ruộng rộng nhất của cánh đồng để tổ chức. Nói đến Lễ hội Lồng tồng trước hết phải kể đến tục thờ thần thánh như: Thờ Thổ thần (đây là vị thần bảo vệ, che chở cho cộng đồng dân bản); thờ Thành hoàng của người Tày, Nùng ở đình (đây là vị thần quản lý địa phận lãnh thổ của bản, làng hay xã trên một khu vực rộng lớn; nơi ngụ cư của nhiều dòng họ trong không gian đất đai, núi sông). Theo tín ngưỡng của người Tày, Nùng, bản làng là nơi “sống gửi hồn, chết gửi xương”, có tác động mạnh mẽ đến sự an cư của con người và súc vật; bởi vậy, dân làng phải thờ Thành hoàng. Mặt khác, thờ Thành hoàng còn xuấn phát từ quan niệm của họ, muốn lạc nghiệp phải cầu trời phù hộ cho mưa thuận, gió hòa, dân bản khỏe mạnh, thóc lúa đầy bồ, đầy kho, gia súc phát triển. Ngoài ra thờ Thần Thành hoàng còn để tưởng nhớ người có công khai sơn, phá thạch, lập làng bản.

Trước khi diễn ra Lễ hội Lồng tồng, đồng bào dân bản làm công tác chuẩn bị rất chu đáo, như: Họp ban điều hành lễ hội gồm các cụ cao tuổi, có uy tín; sửa chữa, lau chùi, dọn vệ sinh sạch sẽ, trang trí đẹp đẽ trong đình, dựng nhà thờ Thần nông (gọi là kệ tồng) gồm 3 cấp tượng trưng cho Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên. Hướng đặt kệ tồng các thầy cúng chọn hướng tốt được dựng làm bằng tre, làm các đạo cụ cho trò chơi “sĩ, nông, công, thương”. Trồng cây nêu, làm quả còn, làm yến, làm bàn cờ, quân cờ, dây kéo co, chuẩn bị nỏ, mũi tên, hình nộm, cà kheo, đánh đu, đánh khăng, bi đá, bao, đáo.v.v.
Về lễ vật cúng tế, tộc người Tày, Nùng chuẩn bị rất chu đáo cẩn thận, tất cả những người tham gia cũng như vật dùng đều phải sạch sẽ; các món ăn phải ngon, tinh túy, cầu kỳ, đẹp mắt như: Bánh khảo (sla cao) làm từ gạo nếp, lạc, vừng, đường được rang lên và xay thành bột; bánh bỏng (pẻng khô) cũng từ gạo nếp với nhựa cây khoai ngứa được đồ lên thành xôi rồi đưa vào cối giã bằng tay; ngoài ra còn có 2 loại bánh bỏng (thóc théc, khẩu sli) cũng được làm từ gạo nếp nhưng cách chế biến khác nhau; bánh chè lam (pẻng khinh); bánh chưng Tày (pẻng tổm, khẩu tổm); gà cúng phải là gà sống thiến béo có chân, đầu, mào đỏ đẹp; lợn đen tế phải từ 50kg trở lên; ngoài ra còn có thêm các loại sản phẩm nông nghiệp do dân bản trồng trọt, chăm sóc và các dụng cụ lao động sản xuất.v.v.

Nghi thức tổ chức lễ hội

Dù được tổ chức ở bất cứ nơi nào, quy mô lớn hay nhỏ, phần lễ vẫn giữ nguyên các nghi thức cúng lễ, mở đầu bằng lễ cầu mùa, thầy cúng đọc các bài khấn và thực hiện các nghi thức tạ Thiên Địa, cầu thần Nông, thần Núi, thần Suối và Thành hoàng, những vị thần bảo hộ cho mùa màng và sức khỏe, sự bình yên của dân làng.

Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khi gà gáy canh một, đại diện các dòng họ cùng thầy mo làm lễ rước nước từ đầu nguồn về bản để sáng ngày mở hội nước này được rước ra nơi hành lễ.

Giàn cúng được làm bằng tre, nứa hình chữ U, đáy chữ U hướng đông; giàn cúng cao khoảng 1m so với mặt đất, rộng khoảng 40cm. Lễ vật chung của bản đặt ở trên giàn cúng phía đáy chữ U, gồm bát nước, một đĩa xôi đỏ, một đĩa xôi vàng (xôi đỏ biểu trưng của mặt trời, xôi vàng biểu trưng của mặt trăng), con gà luộc, xâu cá nướng, bát tiết luộc, một con dao nhọn, một bó vải mới dệt; hai con cá bằng giấy màu vàng, hai con chim cú bằng giấy màu đỏ, hai chùm hoa bằng bỏng gạo cắm trên bẹ chuối, hai chùm quả của cây dong riềng (cây bồ đao, quả tượng trưng cho hạt gạo). Tiếp theo hai bên lễ vật cúng của thầy mo được đặt lễ vật của dân bản. Cuối dàn cúng đặt lễ của thành viên mới về bản trong năm. Lễ vật chủ yếu là các món ăn (không có bát nước, con dao và đĩa tiết).
Đặc biệt, trên mỗi mâm đều có một chiếc bánh hình bông hoa nhiều mầu sắc. Mỗi mâm cỗ còn có thêm hai đôi quả còn được làm bằng vải mầu, trong nhồi cát, bông, có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ. Lễ khấn cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt được thực hiện do các thầy tào tiến hành.

Vào ngày hội, tất cả mọi người trong thôn, trong bản đều tham gia làm lễ. Nhà nào cũng có mâm cúng, có gà luộc, có bánh chưng, thịt lợn, trứng luộc nhuộm phẩm màu, xôi đỏ, xôi vàng tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng, cho âm dương, trên mỗi đĩa xôi có một con én màu đỏ làm bằng giấy đậu lên, những mơ ước, những khát vọng về cuộc sống ấm no, sinh sôi nảy nở, an lành đều được gửi gắm tất cả vào trong đó.

Khi mặt trời lên, trống hội giục, các gia đình lần lượt đội mâm cúng ra thửa ruộng lớn nhất trên cánh đồng của bản mường để chuẩn bị cho nghi thức cầu mùa. Mâm cúng được xếp theo hàng, trên cùng là mâm của thầy Mo - người được kính trọng nhất và cũng là người giữ vai trò chủ trì các nghi lễ trong ngày hội.

Một hồi chiêng vang lên, lễ cúng mở hội bắt đầu. Người làm lễ đứng vòng quanh mâm cúng, khi hương thắp, thầy Mo đọc lời khấn và bắt đầu những nghi thức cầu cúng như tạ lễ thần Nông, Thiên địa, Sơn Thần, Thủy thần….và Thần thành hoàng, những vị thần được cho là có sự tác động đến hoạt động sản xuất và đời sống của cư dân trong cộng đồng Tày – Nùng, Dao, cầu cho được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt sinh sôi nẩy lộc, bản làng yên ấm. Thầy Mo tay cầm nậm nước làm bằng vỏ bầu khô được hứng ở đầu nguồn (do các sơn nữ đẹp nhất của các bản mường mang đến) ngửa mặt lên trời cầu khấn rồi vẩy nước ra khắp bốn phương tượng trưng cho nước thiêng từ mường trời tưới xuống nhân gian cho cây tươi tốt, cho ruộng nương được mùa để tất cả người dân bản mường được hưởng phúc.

Cúng xong, thầy mo tay cầm bát nước tay kia cầm dao lia bốn lần trên bát nước, cắt ngang dọc theo bốn phương tám hướng. Thầy mo ngậm nước phun theo các phương, tay cầm bạc trắng vảy bốn hướng.

Kết thúc bằng bài cúng kỳ yên giải hạn năm cũ và cầu bình an cho năm mới. Nghi thức “Xuống đồng” là phần quan trọng nhất của lễ hội. Tại mảnh ruộng tốt, một lão nông giỏi nhất sẽ đánh trâu cày những đường cày đầu tiên để bắt đầu một vụ mùa mới. Theo phong tục, sau lễ hội này các gia đình mới bắt đầu làm mùa.

Làm lễ xong ở giàn cúng chính, thầy mo đến cúng ở chân cột còn. Cúng xong thầy mo tung cao hai quả còn cho các chàng trai tranh cướp. Ai cướp được quả còn đầu tiên thì người đó được ném còn lên vòng. Người nào ném rách phông giấy thì được thưởng ba vuông vải đỏ, quả còn đó được thầy mo rạch ra lấy các loại hạt bên trong trộn với thúng thóc rang để sẵn trước đó tung lên trên đám đông người dự hội. Mọi người ai cũng muốn hứng lấy phần nhiều.

Các hoạt động của lễ hội

Sau những nghi thức, sau đường cày khai hội là những chiếc còn xinh xắn rực rỡ sắc màu với những tua vải dài lê vút lên không trung hướng đến hồng tâm trên ngọn nêu nơi có hai vòng tròn cao thấp tượng trưng cho Âm - Dương cái gốc của vũ trụ và sinh ra vạn vật. Chiếc còn được rời tay của người chủ hội đã bắt đầu cho cuộc vui. Trai gái xúm lại bên những chiếc còn, đón nhận bằng tình cảm, bằng sự chờ đợi. Ai cũng hy vọng chiếc còn của mình đi qua hồng tâm để Âm - Dương giao hoà mùa màng được tươi tốt. Và bên kia là những đôi mắt, những bàn tay xinh đang chờ đợi chiếc còn trao gửi tình cảm của người mình thương yêu.

Tiếp đó là những bài hát Sli mượt mà, tình cảm với những câu Lượn giao duyên rồi nhiều trò chơi khác như đi cà khoeo, đánh quay, đánh yến đá cầu, đẩy gậy…trai gái có dịp trổ tài với bản mường làm người xem không muốn dứt trong tiếng Lượn nàng ới. Phần thưởng thường là mâm cỗ ngon nhất hội cho những ai thắng cuộc tuy nhiên người chiến thắng lại đem chia cho tất cả mọi người cùng hưởng phúc lộc ngày xuân. Trong ngày xuân tất cả những vật dụng, cây cối vật nuôi trong ngày tết đều được dán một mảnh giấy đỏ lên mình như khoác một tấm áo mới để vui cùng con người sau những ngày lao động vất vả thể hiện tính triết lý và nhân văn sâu sắc.

Ðể chuẩn bị cho hội tung còn, ở giữa đám ruộng lớn được chọn làm địa điểm lễ hội, người ta dựng một cây mai cao từ 20-30cm làm cột. Trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính 50 - 60 cm dán giấy hai bên, đề chữ Nhật- Nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời. Tung còn đòi hỏi cả sức khỏe và sự khéo léo. Những quả còn được khâu bằng vải, bên trong có hạt thóc, hạt bông được nén chặt, ngoài có tua ngũ sắc, được các nam thanh nữ tú thi ném lên vòng tròn trên ngọn cây nêu. Ðó là hai biểu tượng đặc sắc của Dương và Âm, cái gốc của vũ trụ và vạn vật. Khi quả còn xuyên thủng hồng tâm của vòng tròn, là Âm - Dương đã giao hòa, cuộc sống sẽ sinh sôi, mùa màng sẽ bội thu.

Nếu ở lễ hội nào không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hòa. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên còn thi tung còn cho nhau.

Các hoạt động trong lễ hội Lồng tồng còn có: Rước cờ, Múa sư tử , Đi cà kheo, Múa rối, Chọi gà, Đánh đu, Múa võ, Kéo co, Đẩy gậy và Hát then, tuỳ theo tùng vùng.

Lễ hội Lồng Tồng là một Lễ, Hội dân gian giàu bản sắc và sinh động trong các dạng thức biểu hiện, tuy nhiên trước nguy cơ đồng nhất về văn hóa cần có sự phục dựng và bảo tồn kịp thời để không mất đi một lễ, hội đầy ý nghĩa trong ngày xuân và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc. 

Trong những năm gần đây đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước lễ hội Lồng tồng của vùng núi phía Bắc diễn ra càng sôi nổi, phong phú hơn, đảm bảo các yếu tố văn hoá dân gian, đã thu hút du khách cả nước đến thăm quan, dự hội ngày một đông. Trong những ngày hội Lồng tồng đầu năm mới, khắp vùng núi phía Bắc luôn tấp nập du khách gần xa về dự. Với những người được dự hội, khi trở về đều mang theo nỗi nhớ khó quên về những kỷ niệm nơi miền rừng. Hẳn ai cũng sẽ tự hẹn lòng, mùa xuân năm sau lại tìm về dự hội...
Tổng Hợp

    Choose :
  • OR
  • To comment
Không có nhận xét nào:
Write nhận xét